Các nhà văn Lê Trâm, Tiêu Đình, Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, các
nhà thơ Phan Chín, Nguyễn Hải Triều, Đỗ Thượng Thế ở Hội Văn học Nghệ thuật
Quảng Nam có dịp bảo, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung kể từ ngày ly quê, đặc biệt
những bài thơ anh viết thời gian gần đây có gì đó ‘lạ” lắm, ai đó trong chúng
ta “thử mổ xẻ” xem sao ? Xét mình cũng đa đoan, tò mò tọc mạch, có nhận được
một số bài thơ anh gửi tặng, nên tôi cũng muốn “thử bút”, “ thử bình”, “thử
vạch” ra một vài điều gì đó trong thơ Nguyễn Hàn Chung, như một lời cảm tạ cho
những ngày cùng nhau bên “ chén rượu bình trà”.
Thực ra tôi đã đọc thơ Nguyễn Hàn Chung rất nhiều, và luôn
luôn dõi theo những bước chân thơ của anh xem như một tri âm. Từ những tập
in chung hoa ven sông (1984), cánh cửa mở (1987), tuyển
thơ Quảng Nam (1998), đến tập đầu tay tìm
tôi trong bóng, nxb Đà Nẵng 1999, và tập nói
hộ phù du, nxb Đà Nẵng 2002, tôi cũng đã có những bài viết, những nhận định
cụ thể ở nhiều khía cạnh, có thể “xác đáng” hoặc “ chưa xác đáng” về thơ anh.
Theo thiển ý của tôi, thơ Nguyễn Hàn Chung có vẻ sắc sảo, lém lỉnh, ma quái của
ngôn từ; cái vẻ đắc địa, trù mật của các hình tượng; rắn chắc, đầy đặn của ý
tứ. Phải chăng, bởi anh là nhà thơ, nhưng cũng viết đều tay những bài bình,
những bài giới thiệu sâu sắc, có những phát hiện mới mẻ, lý thú, truyện ngắn
anh viết cũng kỳ khu, có nghiên cứu và trăn trở ( tuy vậy, dường như chưa thành
công, không phù hợp với tuy duy của anh, đã làm anh đôi lần thất vọng ?). Xét
về nghề nghiệp, Nguyễn Hàn Chung là nhà giáo giảng dạy văn chương, có sức đọc
rộng và sâu, có tiềm lực thẩm thấu về văn chương. Nói lan man dài dòng như thế
để thấy rằng, Nguyễn Hàn Chung là cây bút đầy khát vọng và đam mê văn chương,
luôn nổ lực và có ý hướng làm mới mình. Riêng tôi có cảm nhận thơ ca của anh đã
có độ chín nhất định, đã được nung nấu và tinh lọc. Thử xem anh “nghịch ngợm”,
cố tình tạo ra cái kỳ ảo của ngôn từ và ý tưởng tốt đẹp như thế nào
Ngày quê nhà đùm túm tiếng tre reo
Cày cục đến chai sần cơn bếp núc
Còn một khắc chẳng cam buồn đắm ngực
Lao nếp nhăn theo gom góp bụi đường
Màu mưa nào không trắng xoá hà phương ?
Em ở lại chiều anh không hẹn thuở
Anh thức hết những bọt bèo rơm rạ
Tiếng chuông câm rưng rức buổi xa người
Cày cục đến chai sần cơn bếp núc
Còn một khắc chẳng cam buồn đắm ngực
Lao nếp nhăn theo gom góp bụi đường
Màu mưa nào không trắng xoá hà phương ?
Em ở lại chiều anh không hẹn thuở
Anh thức hết những bọt bèo rơm rạ
Tiếng chuông câm rưng rức buổi xa người
Nhỏ chăn đồng cuối tóc phải chăn côi
Ngoai ngoái lại mồ cha xanh nếp trán
Nâng chai cạn mà không đành dốc cạn
Giọt rơi tràn con mắt nhướng sa mi
Tuổi lăn tròn đời bể nửa viên bi
Những cạnh sắc cứa vào đâu cũng xóc
Thôi thì cố níu trái tim thất lạc
Nếu một mai nó cứng cựa chai lì
( À ơi điệu cũ).
Khi Nguyễn Hàn Chung còn ở quê nhà, vài anh em văn nghệ “ rỉ
tai nhau, và vài anh em “ thẳng thừng” bảo: ở đất Điện Bàn, đại diện thơ mới là
nhà thơ Nguyễn Minh Hùng, đại diện cho thơ truyền thống là nhà thơ Nguyễn Hàn
Chung. Điều ấy anh cũng đã biết, có làm anh “mắc lòng” hoặc “ vui vẻ” gì không
? Thời ấy tôi cũng ít chú ý và không biết được. Tuy nhiên, xét rộng ra, cụ thể
hơn thì những nhận định ấy nhiều phần sai lệch, chủ quan. Phần chủ quan đầu
tiên, dễ dàng nhận thấy, đó là Nhà Thơ Nguyễn Hàn Chung luôn luôn ý thức sự
sáng tạo, đổi mới thơ mình cả cách viết ( hình thức thơ, thi pháp thơ...),cả đề
tài phản ánh ( nội dung thơ, tư tưởng thơ...). Và ý thức ấy nó lồ lộ ra đến mức
anh luôn “ to tiếng”, “dõng dạc” mỗi khi đọc thơ, những nhận định, đánh giá về
thơ của anh chân thành, rõ ràng có lúc làm cho đối tượng “xấu hổ”. Anh ủng hộ
và rất yêu quí những giọng thơ trẻ, những cây bút trẻ. Do vậy, mặc dầu anh đang
ở xa quê nhưng rất nhiều người vẫn trông ngóng tin tức về anh và theo dõi, đọc
thơ anh. Những năm xa quê, thơ anh đượm buồn và có chất kỳ hồ hơn. Ở đấy chất
chứa câu chữ lóng lánh kỷ niệm, vẻ đẹp u hoài vè quê hương và bè bạn, những
khúc “ độc tấu” về nỗi cô đơn và công việc, về những giá băng lạnh nhạt của con
người và con người ở cái xã hội quá thừa thải vật chất
Sâu màu mắt làn
quê không cửa
Nhớ mưa nghe rớt
giọng ru khàn
Biệt là gió căng
buồm níu trĩu
Em vòng thon eo
ếch thương khan
Từng yêu ấp từng
mê man tở mở
Từng vo ta trong
cam khó thủ thường
Mòn con mắt quấn
câu vào chữ rối
Phiếu thăm dò
chật cứng váy mơ em
Thì cứ tống cứ
tan ngần ấy tuổi
Biết cùng ai chia
sớt chuyện buông tuồng
Chiều tới sáng
lục tìm mưa cắm cúi
Ngón với bàn
ngong ngóng đến thê lương
Gần rất lạ xa tới
tầm tay với
Sợi mong manh
riết róng cột âm thầm
Lầu cây khế leo
tấm thân chùm gửi
Nhướng lên mù
thấy rõ một xa xăm
Vẫn mụ mị lùng
bùng cơn cớ trước
Và ngơ ngơ ngác
ngác những phương chiều
Mùa không hắt tia nắng
vàng ,vô phước
Kẻ điêu nào còn léo
hánh cô liêu
( Bài Tha phương không
tám)
Nếu xét thơ của một số nhà thơ Quảng Nam gần gũi với anh,
thì thơ với ngôi đền thơ của Nhà thơ Nguyễn Minh Hùng là cái đẹp, vẻ trí tuệ
phản ánh vào nội dung- cái được phản ánh, là sự chắc lọc từ ngữ, là sự gắn bó
hữu cơ của từ ngữ và giai điệu của thời hiện tại, là hình tượng thơ tráng ca.
Thử lấy bài Ánh Trăng sau đây làm một
minh chứng
Xin những lỗi thề cùng
về hối tiếc dưới trăng
chiếc thuyền mở trộm
trên dòng sông đêm ấy
ánh trăng cùng chúng
mình
trôi...
Xin những ban trưa
cùng về tạ lỗi với trăng
dịu êm xa rồi trước
mắt là dốc nắng
bước chân vội vàng
không gian thưa vắng
chiều, chiều rồi,
trăng một cánh chim đi
Xin những mộng tưởng
đầy chưa dừng chân tìm lại cố hương
nơi giấc mơ đầu tiên
có thiệt
nơi cắt rốn chôn nhau
một tình yêu đúng giờ trăng mọc
vượt qua những bụi cỏ
gai rơm rớm con đường
Xin những cát bụi bay
đi trả lại vẹn nguyên từng vạt sương đêm
để ánh trăng yên tâm ngả mình trên cỏ ướt
để còn mãi đợi chờ tin
yêu phía trước
ngày anh trở về anh
em trở về em
Rồi xin những đêm về,
đêm ơi, đừng nhủ hết
trăng sẽ lặn ngay
trước mỗi giấc vô tình.
( Ánh Trăng)
Bài thơ có nhiều khoảng lặng, có những nỗi đau thương, thất
vọng được che giấu thật khéo léo, kín đáo, những tia hy vọng, những hình ảnh
đẹp đan xen với những mất mát và kỷ niệm. Đó là một bài thơ hay và buồn.
Thơ với ngôi đền thơ của nhà thơ Phùng Tấn Đông là nét tài
hoa của giai điệu, chữ nối chữ , chữ liên kết chữ như sóng vỗ miên man, mênh
mông, ngôn ngữ có sắc thái biểu cảm của cái đẹp và tình yêu, của mềm mại và
sinh động, mang nặng hơi thở thơ văn xuôi biền ngẫu, đầy đặn và hiện đại. Anh
có bài viết về Thu Bồn rất hay, ấn tượng và đặt trưng.
Sông đã chảy những róc
rách đời đời mồ côi cõi đất đá đỉnh núi thiêng Ngọc Linh ra Cửa Đợi
chảy lấp lóa lưng trần
gai xước nước mắt tổ tiên thời qua sông vỡ đất gieo mầm
chảy nheo nhóc tiếng
gà thung xa khép một trời sao lưu lạc
chảy nghèn nghẹn điệu
tù và sừng trâu đoàn người sững lại nhớ cố hương
Thu Bồn ơi
tôi đã gặp những người
già suốt một đời chưa kịp lên bờ
những cánh buồm rã mục
đắp mùa đông bãi sú
mùa mưa bão chim bầy
giạt hết về bên kia núi
những chiếc ghe bầu
không sinh nở nằm úp mặt chờ sông
chảy đằng đẳng thời
gian sáng sáng mưa bom chiều chiều ly tán
chảy thản nhiên xanh
mặc phía lở bên bồi
trôi cả tuổi thơ tôi
lá mục cành khô những hạt sầu đông đắng
trôi cả dáng em thon
thả non mềm lá cỏ bờ sông
con dế gáy giọng buồn
nhớ mùa dâu xanh mướt
cũng chính là em đã
phả vào tôi mùi da thịt dậy thì ngào ngạt suốt đời trăng
(Riêng với Thu
Bồn)
Bài thơ chạm vào được bản thể của cuộc đời, bật lên thân
phận của cai một, cái cá nhân hòa quyện bền chặt với tất cả, với mọi
người.Những hình ảnh và ngôn ngữ có chút điệu đàng, nhưng đẹp một cách không
thể nào chối bỏ. một bài thơ đi được với thời gian khó tính khô khốc. Còn thơ
Nguyễn Hàn Chung trước đây ngôn ngữ cầu kỳ, khô khan, nhưng giờ hóm và nghịch (
đùa). Anh rất khác biệt với hai nhà thơ trên. Điều ấy thật đáng quí. Thơ anh có
ấn tượng về chất điền dã, về những chiêm nghiệm có tính “mỉa” và sâu. Không
phải tự dưng mà có một dạo Điện Bàn có một “ trào lưu thơ Nguyễn Hàn Chung”.
Điều ấy chứng tỏ thơ anh đã có những ám ảnh nhất định với bạn đọc.
Giờ thì đã “nhạt” rồi, người ta lại trân trọng anh ở sự mới
mẻ, đa dạng các đề tài, ở cách biểu đạt uyển chuyển, suy tư đấy nhưng cũng dạt
dào cảm xúc, ngoài tính hàm súc ra, câu thơ còn gợi bao điều
Tất nhiên không bao giờ em muốn
làm một người đàn bà
đầu xuân
còn khoác chiếc áo tàn
đông ủ rũ
ngồi bó gối dưới hiên mưa
chỉ vì em khát nhìn
giọt rơi từ mắt người đàn ông
lấy hân hoan trong cơn túng quẫn
làm quà tặng ngày sinh
em
người xưa phán định
những cấm kỵ đàn bà đàn ông
bằng sự nhân danh
quyền phép
thử hỏi có ai dám bò
qua mép vực
thả thời gian xuống hố
thẳm dò thử nông sâu?
cứ bàn tán hoài ích gì
ngày cứ lên,sông cứ
chảy ,chim cứ hót
hoa tàn ,trái rụng, chồi xanh
già úa héo tàn tro
,trai trẻ phổng phao
niềm tin cũ bào mòn
thơ ngây niềm tin mới
(Bản gốc)
Thơ là cái đặc dị, huyền ảo của tâm hồn. Và nếu không ngoa,
tôi vẫn cho rằng, thơ cũng là cái đặc dị, huyền ảo của trời đất. Khi bài thơ đã
được viết ra đến chữ cuối cùng, thì nó không còn là của riêng ai, và bài thơ ấy
sẽ được kéo dài mãi mãi-nghĩa là nó được độc giả các thời đại khác nhau sẽ viết
thêm lên, được bổ sung, được khám phá ở nhiều khía cạnh và mãi mãi. Bài thơ hay
sẽ không có tuổi ( tuổi sống lẫn tuổi thọ). R Tagore viết rằng : “ thế gian này tôi hiểu chẳng bao nhiêu/ những
hành động của con người/ những dòng sông, thành phố/ những núi non, hoang mạc/
những muông thú không quen/ cây cỏ lạ lùng/ trời đất bao la/tôi chỉ biết xó
nhà/ đầy thất vọng tôi du hành ánh mắt/ và tôi đi nhặt/ những thấp thoáng ngôn
từ/ những bức tranh rơi rớt/ mà chất đầy những phía hư vô/ của niềm kinh
nghiệm/ có một nhà thơ của trái đất/ đó là tôi/ những điệu ly tao của đất/ vọng
vào ống sáo tôi chơi/những gì trái đất gọi/ tôi đêm giấc mộng đáp lời/ trong
những giờ im lặng/ của trái tim mình/tôi đã nghe ra khúc Đại Hòa âm”( nhà
thơ của trái đất-Nhật Chiêu dịch). R. Tagore ca ngợi thơ ca, sự tự do, sự sáng
tạo, niềm yêu cuộc sống kinh ngạc đã giúp cho con người vượt qua tù ngục của cô
đơn, nỗi sợ hãi cái chết và tìm thấy ánh sáng của cuộc sống, thấy được chân lý
vĩnh hằng. Tôi rất tin tưởng điều huyền diệu ấy. Và tôi hy vọng, nhà thơ Nguyễn
Hàn Chung với khát vọng bền bỉ, với đam mê và tình yêu thơ ca mãnh liệt, sẽ
viết tiếp nhiều bài thơ hay, tạo những cơn phấn chấn khác như ngọn núi lửa phun
trào. Đó là niềm vinh quang ( lặng lẽ cô đơn) của cái chết- nghĩa là chết đi
những cái cũ kỹ, bạc thếch mới sống lại những cái mới mẻ, hiện đại. Như mọi
lần, để kết thúc bài viết nhiều phần chủ quan này, xin cho tôi gửi vài lời thơ
như một lời cảm ơn với bạn đọc
Chót vót trời cao cái nắng tháng năm đổ xuống chảo nước nóng
Trong hồ cạn nước bầy cá ôm nhau thở những hơi cuối cùng
Mùi bùn nồng nặc hâm hấp tử khí
Tôi rụt cổ vào căn nhà vách đá đọc vài trang báo nhảm nhí cô
đơn
Cả gió với những đôi tay dài ngoẳng đôi cánh to bè
Thổi bốc ném tung tóe cát bụi vào khu vườn mẹ tôi
Khu vườn vẫn duỗi mình thiêm thiếp
Đâu còn gì mà mong mùa ổi thơm những quả chín vàng tươi
Mồ hôi nhễ nhại trên lưng ba tôi trên má ba tôi những đường
cày
Ông bập thuốc dưới một gốc dừa già có tí bóng râm chẳng nghĩ
ngợi điều gì
Rồi ông ngủ bên con chó Bê Tô thè chiếc lưỡi dài khô hớp
từng hớp hơi nước
Con trâu trong chuồng góc vườn đôi mắt hiu hắt lim dim mơ về tháng ba rơm rạ
xanh mát đầy đồng
Chợt mẹ tôi ra sân vườn, đôi chút âu lo
Những chậu xương rồng nhọn sắc đâm vào đôi bàn tay mẹ đâm vào ánh nắng chói chang
Những chậu xương rồng xanh ngắt lá cây đỉnh núi
Quệt vào đôi mắt mẹ
nức nở tuổi mười lăm
Mẹ tôi mỉm cười
Hoa xương rồng
Đã nở
Lần đầu tiên
(Hoa xương rồng tháng năm).
Bài viết của Huỳnh Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh Ngọc Huệ, Đại Lộc, Quảng Nam
Chợt mẹ tôi ra sân vườn, đôi chút âu lo
Những chậu xương rồng nhọn sắc đâm vào đôi bàn tay mẹ đâm vào ánh nắng chói chang
Những chậu xương rồng xanh ngắt lá cây đỉnh núi
Quệt vào đôi mắt mẹ
nức nở tuổi mười lăm
Mẹ tôi mỉm cười
Hoa xương rồng
Đã nở
Lần đầu tiên
(Hoa xương rồng tháng năm).
Bài viết của Huỳnh
Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh
Ngọc Huệ, Đại Lộc, Quảng Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét