Bài viết của Huỳnh
Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh Ngọc Huệ,
Đại Lộc, Quảng Nam .
ĐT 0510 3865898
(nhân đọc tập thơ nắm níu của Nguyễn Đức Dũng, nxb Thanh
Niên 2010)
Ở tập thơ đầu tay “Đốt giấy cho
sông” đã rất chi là trầm phù hư ảo ngữ nghĩa, thế rồi tập “ nắm níu’ vừa ra mắt
độc giả cuối năm 2010, thật lòng Nhà thơ Nguyễn Đức Dũng đã làm cho tôi “hụt
hơi” tra từ điển, và “ nắm níu” không hề thấy. Chỉ thấy “ nắm” là giữ chặt... và “ níu” là nắm
lấy, giữ chặt...Tôi nghĩ : “ tên” này chơi kiểu gì đây ? Không gì hơn, đọc tập
thơ để tìm ngữ nghĩa
“
Anh mang cho em đôi bàn tay vẹn nguyên
mười
ngón vụng về mở ngửa
mang
cho em cuộc đời anh thấm đẫm gió và sương
gầy
tóc tuổi
sau
một thời trẻ trai mê mệt những con đường
ôi
những con đường nắm níu tháng năm
tình yêu và sức vóc
hiếu
kỳ giấc mơ hoa trái sắc màu
anh đã đi đã yêu và đã khóc
mà
con đường mê hoặc vẫn còn đau”
( Hành trình)
Vậy ra “ nắm níu” phải chăng là níu giữ, là tiếc nuối, “ là
tiếc rẻ nên thành ngơ ngác’ những kỷ niệm đẹp, những giấc mộng ban đầu với tuổi
xuân dần ra đi, mang đi cánh bướm và những câu thơ học trò non dại ? Thật ra,
nói thế cũng chỉ một cách liên tưởng có
phần thô thiển, giễu cợt. Đọc “ nắm níu”, ta còn gặp những phần tâm hồn ray
rứt, đau đớn, bất an của tác giả tưởng chừng còn lặng khuất ở đâu đó trong mỗi
ngày ồn ào của cuộc sống. “ Nắm níu” lưu giữ bao nhiêu ký ức, là độc ẩm, là đối
ẩm trong mê cung bừa bộn, ngơ ngẩn của lòng người. Đọc tập thơ bạn đọc dễ dàng
nhận ra Nguyễn Đức Dũng là nhà thơ đa đoan, đa tài thật. Bao nhiêu là chuyện
đời, chuyện người, chuyện gần giũ, chuyện xa xôi, chuyện tình yêu, chuyện ngang
trái, chuyện gặp gỡ, chuyện ly biệt...nó cứ “ ám’ và ám ảnh vào người của anh.
“
Xin mở lòng như Phật nghe em
Vì thương ai nỡ để nhau
buồn
Bởi
chưng còn ở trong trời đất
Ta,
Thằng gàn dở Bốn-ngăn-tim”
(
bài thơ gởi vợ)
Quả thật, người viết bài giới
thiệu đây không hiểu Ba, Bốn –ngăn tim gì, chỉ giật mình thảng thốt những câu
thơ buồn, “ ám” vào con người “ dở’ hơi ngơ ngác. Nguyễn Đức Dũng có những câu
thơ riết róng, xát muối, đớn đau, u ẩn, lạ hoắc như vậy. Tôi có cảm nhận, khát
vọng của nhà thơ không chỉ đứng cả hai chân như trời trồng, mà còn bấu víu cả
hai tay và hòa trộn cả máu xương não tủy của con người nhà thơ vào vùng đất
Quảng Nam
đầy nghiệt ngã chống chọi với thiên nhiên và cuộc sống. Bởi thế, ngoài ngôn ngữ “ chân quê”, giàu
chất liệu hình ảnh làng xóm, quê hương, thơ Dũng còn quẫy đạp để phá vỡ những “
bức tường” nào đó con ẩn nấp trong tiềm thức, hoặc “ cái đuôi di truyền” còn
sót lại.
“
Ta mừng nhau thêm một tuổi trời
thêm
một trần gian
nắng
mưa tùy tiện
thu
hoạch từ lòng tận hiến
thì
kể chi trượt giá thế nhân này
mỗi
sớm qua đi
quý
hiếm một ngày
hạnh
phúc cháy ngầm tàn tro âm ỉ
đã
hết xanh để lừa lửa củi
tự
ngún ngoài hơ háp vào trong”
(
Tự ngún)
Không như tập đầu “ đốt giấy cho
sông”- đề tài mẹ, cha, quê và chất giọng lục bát hay lặp làm bạn đọc dễ nhàm và
tiếc, ở tập này Nguyễn Đức Dũng đã “ biết” chăm chuốt, cẩn trọng hơn trong việc
chọn bài, đề tài, cách sắp xếp chúng để giới thiệu với bạn đọc. Lục bát của
Dũng cũng nhuần nhị hơn, cao sang hơn. Đọc lục bát của anh, ta không gặp chất
hóm hỉnh, thanh thoát như Nguyễn Tấn sĩ ( Ông Thanh Tịnh tóc bạc phơ/ ông cầm
tay dắt tuổi thơ đến trường/ để mùa thu với mù sương/ trăm năm như thể tơ vương
vấn người/ mùa thu tôi biết ông cười/ nghe con trẻ hát gọi trời thu xanh, ở bài
thơ “ nhớ mùa thu Thanh Tịnh”), cũng không gặp chất nghịch ngợm, trào lộng của
Nguyễn Hàn Chung ( tóc ơi này sợi tóc ơi/ tìm nhau chi đến rối bời chiêm bao/
tay vùi trong tóc lao xao/ lạnh lan từ kẽ tay vào lòng ta/ thẫn thờ ngồi gỡ tóc
ra/ sợi thanh xuân rụng sợi tà huy bay/ cỏn con còn sợi tóc này/mà mong giăng
tới cao dày tóc ơi, ở bài thơ “ sợi tóc”). Lục bát của Nguyễn Đức Dũng đau đáu
chất kỳ hồ và thân phận, kỳ khu và nghiệt ngã.
“
Chén tàn rót buổi nghinh xuân
Nghe
say từ độ phù vân kiếp mình
Hai
tay nâng cả tâm thành
Chênh chao riêng
mỗi cái hình trong ly
Bóng ngày như giục
xuân đi
Vàng
hoa cúc lẫy cũng vì ta, thu
Một
thân làm cả tạc thù
Thơ
ngâm ngất ngưởng
gật
gù...
rồi
xuân”
(
Độc ẩm)
Ở tập “ nắm níu” này đã ghi nhận
những thay đổi cách ngắt nhịp, cách dẫn dụ , triển khai các ý tưởng ở lục bát,
và anh đã thành công, như “ Tiệc”, “ chạm”, “ khát”, thì thơ “ tự do”, anh cũng
đã có biến chuyển và ấn tượng, như “ tự hát, hành trình, tượng”. Có lẽ tôi
thích nhất là bài “ anh đeo tay như chiếc đồng hồ”
“
bạn bè anh toàn những đứa ầu ơ
đi
trước ngồi sau lận lưng khí khái
như
nhiên gõ đũa hát tràn :
-
“ Thiên sinh ngô
tất hữu...”
trời mưa riêng chỗ dây phơi
!
Những câu thơ thật tự nhiên như
nhiên, có khẩu khí và thân phận. khế hợp chăng, có lần cố trung niên thi sĩ Bùi
Giáng đã viết : “ hai nếp cũng dzô một
xôi/ hai xôi cũng roa một nếp/ trẻ khôn
quoa, già lú lại/ giòa khôn lại, trẻ lú quoa/ mẹ ôi ! con của mẹ hư rồi/ con ôi
! mẹ cũng hư rồi như con/ hư rồi mà vẫ thong dong/ hỏng rồi” (Quoảng Nôm bình
dân ngôn ngữ, trong tập thơ Mùa màng tháng tư, di cảo của Bùi Giáng, nxb văn
nghệ 2006).
Có lẽ bạn đọc sẽ không ưng ý về
dùng từ còn cũ quá chăng, thể hiện nỗi cô đơn và trái khoáy của cuộc đời cũng
chẳng có gì gọi là mới, chưa có những khúc ca tráng lệ, hoành tráng, dẫn đạo,
chất “ ngang tàng”, kỳ hồ thì đầy rẫy ở thơ Việt Nam những thập niên 60, 70 của
thế kỷ trước, phương ngữ dày quá chăng ?
( dẫu biết rằng đây cũng là dụng ý của tác giả), tuy nhiên, “ nắm níu”, một lần
nữa, khẳng định Nguyễn Đức Dũng là một trong những nhà thơ Quảng Nam đã
thành công và có tiềm lực, và rất “ máu lửa” với thơ ca.
Cho tôi xin lặp lại, và tôi vẫn
nghĩ rằng, những điều tôi nói sau đây là không thừa, rằng, những nhận định trên
đây chỉ là riêng cá nhân tôi, và tôi hết sức cố gắng tìm ra một “ tri âm” , cho
dù rất ít ỏi ở các tác phẩm của bè bạn. Để kết thúc bài viết, xin cho tôi bày
tỏ vài lời sau như một tri ngộ
BÀI THƠ TÌNH YÊU THÁNG MƯỜI MỘT
bài thơ tình yêu tháng mười một
thơm như gió mướp chuẩn bị ngày
vui
lưu luyến gì em ơi
con sông mùa đông tràn bờ nức nở
mùa ly biệt
ta đứng dưới mây nhìn mây bay
ly sầu ly sầu mà chi cô đơn mà
chi
tháng mười một cài hoa lên tóc
chảy trăng tứ xứ chuông ngân thánh
thót chuông vọng hồi
chuông ngân thánh thót mà chi
chuông nằm im trên vạt cỏ chuông
treo
trên tay người
từ đâu tới đây để ngóng vọng
vứt tiền qua cửa vứt đời qua cửa
mà không vứt được nỗi buồn
cây xanh đứng đó nghìn sau cây
xanh
mỉm cười
em làm bướm bay vàng bãi non
anh làm chồi xanh nắng thơm khe tóc
tháng mười một dài như chiếc lược
tháng mười hai chót vót mưa mi
lang thang lá trở mình sấp ngửa
nhìn đâu cho thoả gương mặt người
gương mặt nghiêng rối bời gió thốc
gương mặt thẳng như bàn tay mẹ
ấm áp bờ dâu đường quê dứa cuốn kèn
đèn tuổi nhỏ
con chim núi là ta hay ta là con
chim núi
vút một tiếng tắt cổ
bi thương và mê ly
tháng mười một vành trăng giếng nước
nước thơm hoa giác bất
nước từ thân thể mà ra.
Bài viết của Huỳnh Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh Ngọc Huệ,
Đại Lộc, Quảng Nam .
ĐT 0510 3865898
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét