(Đọc Vọng Nguồn, Thơ Đinh Huyền, NXB
Đà Nẵng 2015)
Nếu
chiết tự rồi suy diễn rộng ra, thì Vọng
Nguồn là tiếng vọng non nước núi rừng, tiếng vọng nguồn cội bản lai, tiếng
vọng của cố hương qui khứ, tiếng vọng tuổi thơ của “ Hoàng tử bé”, tiếng vọng của bờ lá, bờ gò, bờ bụi, của lưu
thủy đơn côi hoặc trùng phùng, của trùng trùng duyên khởi tự tâm tính- tức là
tiếng nói của tâm hồn nhuần nhụy với đất đai cố quận. Ấy là chúng tôi đã mang
gươm đao mà múa lên trên sàn hội. Nhưng đôi khi nó là vậy, bởi thơ ca bí ẩn lạ
thường mới mời mọc độc giả. “ Ôi cánh
đồng bất tận của tôi/ hãy trải nghiệm bình minh lên từ nắng từ gió/ từ hoàng
hôn rêu màu hoang tịch/ trổ giấc mơ bay
qua ngọn đồi/ nẻo đường đi về còn có
dòng sông/ niệm lòng thao thức/ lặng lẽ ao đầm nở hoa súng tím/ nụ xuân thì thơm từ sơ khai” ( Bài tình ca cánh cò).
dòng sông/ niệm lòng thao thức/ lặng lẽ ao đầm nở hoa súng tím/ nụ xuân thì thơm từ sơ khai” ( Bài tình ca cánh cò).
Không,
nhất định là không phải như vậy khi chúng tôi gán ghép các ý niệm triết học nào
đó cho thơ ca Đinh Huyền. Bởi tôi biết Đinh Huyền làm thơ đã rất lâu, dường như
không dưới hai mươi năm rồi. Anh trằn trọc, bầm dập với nó rất nhiều lần, rất
lâu bền, rất tỉ mẫn với cảm xúc thực thụ của “ một nông dân cày ruộng”. “ Như người nông dân/ hai sương một nắng/
cuốc góc chặt bờ/ theo dấu chân trâu/ giữ đường cày đi thẳng/ ươm hạt bón phân/
mơ ngày mai tươi sáng/ từng giọt mồ hôi rơi…” ( Tác phẩm). Nhưng đôi khi chúng
tôi cũng không dám chắc điều đó, bởi tâm hồn nhà thơ làm sao lấy thước đo chiều
kích ?
Tập Vọng
nguồn đã cày xới mảnh đất quê hương trong nhiều thi tứ, thi ảnh rất truyền
thống và nhiều màu sắc biểu cảm.
Với Quê
ngoại, anh có những dấu lặng ; “ Cứ
hẹn với lòng rồi xao lãng/ vườn trăng/ quê mẹ/ lối gầy/ hương làng xanh xao nỗi
nhớ/…/gió hoàng hôn chảy bời bời ngõ ngách”. Hình ảnh không mới nhưng gợi,
câu thơ chắc tay.
Với làng,
thơ mộc mạc, giàu tính cội rễ, tình yêu thương và sự gắn bó ; “ Còn đó bờ quê nương bóng đi về/ nơi máu thịt
đã thấm từng thớ đất/ nơi mẹ ngày xưa/ cắt rốn tôi bằng con dao tre cật/ nơi
cha bẻ bảy loại gai/ xông ngày tròn tháng đặt tên”
Với
cha, thơ nhàu nhàu nước mắt nhân sinh tan hợp : “ Hoàng hôn nắng nhòa góc núi/ hoa trang đỏ mắt mong chờ/ con xa mười năm
có lẻ/ bạc đầu lau sậy phất phơ/ nén hương thay lời tạ tội/ man man sợi khói
diệu huyền” ( Viếng mộ).
Với mẹ, mặc dầu anh chưa có những câu thơ lặng lẽ tịch mịch như Đỗ Thị
Kết : “: “Hàng cau/ Chừ đã vươn cao/Mẹ ơi/Mơ ước thuở nào/Giờ đây…./Nắng soi rực rỡ vườn cây/ Hồng kia đỏ thắm/Mai này vàng tươi/… Cháu con tíu tít chúc mừng/ Mẹ ơi/ Cứ tưởng dễ chừng trăm năm/ Mẹ gần gũi/ Lại xa xăm/ Hàng cau trước ngỏ/ Bao năm trĩu buồng…( Giá mà có mẹ); chưa mãnh liệt dị thường của Ê xê nhin: “ Mẹ có còn đó
chăng thưa mẹ/ Con vẫn còn đây xin
chào mẹ của con/ Ánh sáng diệu kì vào
lúc hoàng hôn/ Xin cứ toả trên mái nhà
của mẹ/ Người ta viết cho con rằng mẹ
/Phiền muộn lo âu quá đỗi về con/Rằng mẹ hay dạo
bước ra đường/Khoác tấm áo choàng xưa
cũ ná” ( Thư
Gửi mẹ); Chưa yên ba thu cúc như Huỳnh Minh Tâm : “ Con uống sữa cố
hương nằm nôi tre kĩu kịt/ con rúc vú cố hương đầy đẫy hạt cơm vàng/ …/ rằm
thảng bẩy vu lan báo hiếu/ con lạy hàng dừa con lạy đóa sen” ( Cố
Hương là mẹ tôi); nhưng Đinh Huyền có nét riêng của xao xác đớn đau, của tri ân
mẫu tử biển lớn sông dài : “ Sông vẫn
chảy qua làng mà lòng trầm tích/ không viết nổi câu thơ gửi mẹ quê nhà/ …/ bao
nhiêu năm rồi Thưa Mẹ/ vẫn bóng trăng thanh vẫn đó ao làng/hoa nở dọc bốn mùa
xanh khát vọng/ thương một đời mẹ khuất đò giang!” ( Gửi mẹ quê nhà)
Với mùa và đất, anh có nhưng câu thơ chật nỗi niềm
và xao động, rất gần gữi với những hình ảnh làng quê Việt Nam ; “ Ôm mùa xuân trên tay/
như ôm bó hoa đầy hương sắc/ màu đỏ môi hôn ngày gặp mặt/ màu vàng cánh đồng
khi qua/…/nợ dòng sông, một chuyến đò” ( Đi cùng mùa xuân)
Với quê xứ, đi xa rồi ngày về, những lấn quấn ký
ức, kỷ niệm, nợ nần, đua chen, cơm áo, danh vọng, anh đẩy lên như một tiếng bi
thương ngậm ngùi : “ Khăn áo câu thơ quay quắt tìm về/ sợ làng không nhận
mặt/ đùn giấc mơ phía trước/ lang thang triền sông/ cốc chiều uống thỏa/ tuổi
thơ xanh ký ức quê nhà/Lam Phụng ngày xa/ Trăng buồn gội tóc” ( Vọng nguồn)
Với sông nước đò giang, anh có niềm trắc ẩn,, những
ký ức vụn nhưng gợi lại một cảm xúc mất mát, một tiếng sóng dễ bị lãng quên : “
bến chiều hoang vắng buồn xo/ nhẩn nha cuối bãi cánh cò nhặt rêu/ bóng ai đã
mỏi tay chèo/ đâu người năm cũ còn neo phận mình” ( Bến đò xưa)
Đọc đến cao trào của sự dâng hiến thơ ca như các bài: Tác phẩm, Quê
ngoại, Làng, Trước tượng vũ nữ Chăm, Bài
tình ca cánh cò, Trên đường hoa mẫu đơn, Kỷ niệm… dường như chúng tôi cảm nhận
sự giao thoa thơ của Đinh Huyền với những nhà thơ cùng quê hương Đại Lộc là Ngô
Hà Phương Nguyễn Hải Triều, và Nguyễn
Ngọc Hạnh Ở đó chúng ta bắt gặp những cánh đồng quê mẹ, quê nghèo, quê rất mộc
mạc, quê rất kiểng, quê rất máu thịt. Các anh đã tưới và vun xới lên bằng ngôn
ngữ thơ ca giàu hình tượng, giàu màu sắc và tính lan tỏa. Âm vang của “ Xưa
tôi sống trong làng/ Giờ làng sống trong tôi” ( Làng –Nguyễn Ngọc
Hạnh); “Khuyết một trời
tuổi thơ tôi/ Rưng rưng đìa ao sông biếc/Cái lờ bộng dây
bủa câu con cá tràu con cá diếc/ Bóng mẹ
đồng xa lúa má/Quay quảy lo phiền chiếc đòn gánh cong cong…” ( Đòn Gánh-
Nguyễn Hải Triều); ““Cuộc đời bão thổi/ anh đã đi vạn dặm chân trời/ sao có điều rất lạ em
ơi/ vẫn chưa đi khuất tiếng gà trưa xao xác/ tiếng mẹ la con tiếng sáo cưỡi
diều/ tiếng con trẻ kéo ngày lên ngõ nhỏ/ tiếng gàu khua trăng tiếng lá động
chiều/ tiếng nhái nhai đêm tiếng vườn mỏi quả/ tiếng võng vẽ vòng tiếng mọt mài
trưa”(Bóng làng- Ngô hà Phương). Dường như các anh đã góp phần bảo lưu và
mở rộng nét đẹp, nét văn hóa quê hương trong dàn hợp âm nhiều cảm xúc khác
biệt.
Rõ ràng khi
đọc toàn bộ tập thơ, độc giả vẫn nhận ra nhiều hạt sạn, nhiều bài chưa như ý,
như cảm xúc đôi bài chưa tới, việc sắp xếp các khổ chưa thật hợp lý, chưa thật
tạo ra sự mới lạ và ấn tượng ( Như bài Bài tình ca cánh cò), nhiều khi dụng chữ
quá làm khô cứng nhạc điệu bài thơ, nhiều từ địa phương quá làm bài thơ không
có tầm vang xa, nhiều hinh ảnh còn lặp lại và chưa tạo ra sự đột biến trong thi
tứ. Nhưng có lẽ tập trung cho đề tài quê hương nên những hạn chế thường tình ấy
là điều không tránh khỏi. Không phải tự dưng mà nhà thơ Nguyễn Giúp đã giới
thiệu anh một cách mộc mạc phong lưu: “ Với mớ ngôn ngữ ám ảnh xua đuổi quá
khứ và hiện tại, người chết và người sống, giữa hư và thực trộn lẫn bóng dáng
cô hồn thất thểu hành khất nơi triền sông: “ Khăn áo câu thơ quay quắt tìm về/
Sợ làng không nhận mặt…”. chợt nhận ra sự cô đơn, chợt nhận ra nỗi buồn bùng nổ
dửng dưng và lạ lẫm…Thơ anh mãi ám ảnh niềm khát khao ra đi rồi quay về, mãi
không thoát khỏi tiếng chim sửng dại nơi đầu ngọn tre, nơi sợi khói chiều vướng
lụy nỗi đau đằm thắm và độ lượng…Ttập thơ đã tích cóp khá dày dạn về góc nhìn
nhân sinh để từ đó tác giả gửi gắm tâm hồn mình cùng chảy tràn suốt chiều dài
thơ một cách mộc mạc, chân thành và lắng sâu!...Một cố hương hiện tiền, hiện
hữu…”
\ Còn với người viết bài này, vẫn nhìn quê hương
trong thơ Đinh Huyền một màu đất mẹ dung dị, chứa chan đằm thắm, và hình tượng
đất nhẫn nại, bền bỉ của tiểu thuyết những năm chiến tranh. Và nhớ những câu
của La Mac Tin : “Thơ ca phải thầm kín, có cá tính, suy tư và nghiêm trang”,
“là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim và thiêng liêng nhất
của tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu
nhất trong thiên nhiên” . Suy nghĩ mãi về điều này, dường
như tôi nhận ra một phần nào đó Đinh Huyền đã làm được, và hy vọng anh sẽ biến
những điều không thể thành có thể, mở rộng tri thức thi ca hiện đại như lời mở
đầu bài viết, tôi như con bò rống to, đôi lúc cần vậy chăng ? Và làm sao tôi có
thể khước từ “ cảm ơn ngày đã không giữ tôi/ trong chiếc lồng sơn phết/ tôi
hái nhành xuân tặng em/ bài thơ và bản tình ca/ được phổ từ trái tim mình”.
Bài viết Huỳnh Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh Ngọc Huệ, Đại
Lộc, Quảng Nam
ĐT 0122 306 8721
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét