(Nhân đọc ĐỌC
GIỮA LÒNG SÔNG CHẢY
Loáng thoáng tôi gặp Ngô Phú
Thiện vài lần trong các cuộc họp của Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam; chưa có
dịp trò chuyện, hàn huyên với anh nhiều; chỉ đọc rải rác đôi ba bài của anh
trên các tạp chí Đất Quảng và báo Quảng Nam; nên khi nhận được tập thơ Giữa lòng sông chảy anh tặng, để “ nhận diện” ra một người anh
cùng “nghề” và “nghiệp”, một “ gương mặt mới” của xứ Quảng, tôi liền một mạch
đọc Giữa lòng sông chảy
Như anh giới thiệu ở trang bìa,
tên Ngô Đăng Khoa, sinh năm 1956, quê Tam Kỳ. Như vậy tính ra tập đầu tay này
của anh là một bước đi dài của tuổi đời để với được “ quả chín”, một cố gắng
khá “nhẫn nại” trên con đường in ấn tác phẩm để giới thiệu với bạn đọc.
Thiết nghĩ, Giữa lòng sông chảy phải
chăng là dòng tâm sự sâu lắng, đa mang, có cốt cách xương tủy của tác giả giữa
dòng đời phù vân đang cuộn xiết, xô bồ ? Và giữa lòng sông ấy vẫn có một trái
tim âm thầm mơ mộng, luôn trăn trở về nhân tình thế thái, luôn chiêm nghiệm về
lẽ được mất, tốt xấu, vinh nhục của danh vọng và tiền bạc ? Ta thử nghe anh
thao thức : “ Nhón tay góp nhặt thời
gian/ cố quên để nhớ...mang mang tình người/ khi vui dốc cạn chén đời/ khi buồn
vay tạm một thời để yêu” (Góp nhặt thời gian). Có lẽ đó là những câu thơ
hay nhất, ý vị nhất của anh, và “vận” vào tâm trạng, tâm tình, tâm tính của anh
thì không khác biệt mấy chăng ?
Đọc Giữa lòng sông chảy , bạn đọc dễ cảm nhận nhiều tâm sự, dằn vặt, âu
lo, toan tính rất đời thường, một đời sống có phần nặng nhọc và chu đáo; những
câu chuyện cảm động và mau nước mắt; những đề tài quen thuộc nhưng âu yếm- đó
là mẹ, những vùng đất tác giả đã đi qua để lại nhiều dấu vết và kỷ niệm, những
thảng thốt yêu thương với trời đất, thời tiết buổi giao mùa, ngẩn ngơ cỏ cây
hoa lá; những trăn trở gắn bó với nghề nghiệp...Bởi vậy, nhan đề các bài thơ
của Ngô Phú Thiện cũng thật giản đơn, mộc mạc: ước, mẹ, nhở, phượng xưa ,lạnh, trầm mặc Hội An, với Huế, đêm phố núi,
đời và thơ, giếng cạn... Và thơ thật dạt dào cảm xúc : “Tiếng chim gõ vào buổi sớm/ giật mình năm
mới dọn sang/ ngoảnh lại phía bờ em thăm thẳm/ sao nghe ta vướng hơi ấm nồng
nàn/ dọn dẹp vui buồn quá khứ/ đóng đinh mình lên vách thời gian/ treo tấm lịch
đời chỉ còn một nửa/ để mai vàng ươm nắng miên man” ( xuân muộn).
Ngô Phú Thiện có giọng thơ lục
bát khá đầy, không phải riết róng, phóng khoáng, tân kỳ, nhưng ý tứ sắc sảo,
khêu gợi, mang tính “cổ điển”. “không đài
các chẳng kiêu sa/ nồng nàn chút vị phong ba dãi dầu/ phận hèn thân cỏ loài
rau/ hồn trong nở đến bạc đầu vẫn trong” (Mùa hoa cải). Hay “chân mòn lòng mẹ chẳng mòn/ ngọn đèn chong
sưởi tâm hồn mồ côi/ áo cơm nợ với cuộc đời/ trong con nợ một khoảng trời nhớ
thương” (Dòng sông của mẹ). Tâm sự ngổn ngang, nỗi khổ của mẹ, nỗi đau của
quê: “đêm bừng tỉnh thấy ngày vỡ vụn/ cửa
nhà đâu giữa đám hoang tàn/ lão nông dân dành một đời lam lũ/ để giờ ngồi vuôts
mặt thở than” (Viết trong bão), luôn
quyện nhau trong các câu thơ, bài thơ của anh; nó lồ lọ ra, chường ường ra ở
đấy, thật khó phân định tốt xấu, hay dở. “ cõi
phù sinh còn lắm bon chen/ mấy ai biết vẫn những nàngTô Thị/ lặng lẽ sống trong
vô vàn nghịch lý/ mà tâm hòn đâu dễ giá băng !” (Những nàng Tô Thị).
Thơ tự do, kiểu giống văn xuôi,
rồi thơ viết về địa danh như không phải là thế mạnh của Ngô Phú Thiện. Dạng này
anh không đóng góp gì nhiều cho cấu trúc, nhịp điệp thơ, hoặc những chi tiết,
hình ảnh thơ mới mẻ, gây “sốc”. Tuy vậy, anh cũng có những cảm nhận rất riêng
khi viết về Hà Nội. “ Chợt phố cựa mình/
đêm trở gió/ tiếng gươm khua dậy sóng mặt hồ/ trang
sử nghìn năm dát vàng Bút Tháp/ tháng tư về...thành Hà Nội nôn nao/ hối hả phố
phường giăng kín bóng nê-ông/ còn ngọn đuốc/ dõi đường về Võ Miếu/ đã rực cháy
trong đêm Hoàng Diệu/ thảo huyết thư/ sống chết nguyện theo thành” (Đêm Hà
thành tháng tư).
Có thể so sánh là khập khiểng, vì
sự đa dạng, phong phú vốn có của đời sống là sự sai biệt, khác lạ; hoặc sở
thích, đam mê một phong cách nào đó là quyền của mỗi người, không nên “rước”
vào trong bài viết này. Nhưng tôi vẫn ngớ ra và yêu mến xứ đất Tam Kỳ có thơ
của Nguyễn Tấn Sĩ hóm hỉnh, trào lộng và đầy biền ngẫu, với những câu thơ hay ,
chẳng hạn : “đâu riêng biển và trời xanh
đến thế/ đâu riêng anh trống giục bởi thu vàng/hoa cúc đã nở rồi vì không thể/
để đêm rằm uống cạn chén thu tân/ anh ẩn nhẫn thắp cho mình đốm lửa/ thắp cho em chấm lửng những sao trời/ đèn kéo
quân giục mờ thu qua cửa/ em bắt đầu làm nguyệt kẻo thu rơi”(Mùa thu qua
cửa). Bài thơ gợi trí tưởng tượng phong phú, sinh động, những câu thơ có chất
giọng mới mẻ, phóng khoáng. Hoặc thơ của Nguyễn Tấn Cả có chất phong lưu, khinh
bạt và rắn rỏi : “Tôi vẫy khăn lên gương
mặt trời chiều/ nghe xơ xác những tầng mây xốp/ nghe bình vôi vật vờ bụi rậm/
chiếc lu sành ú ớ gọi mưa/ tôi vẫy khăn lên trán/ nghe mẩu than thao thức trong
bếp/ đỏ hừng hực bài ca lửa nồng/ tôi vẫy khăn lên mắt/ nghe nước ào ạt chảy/
qua thác ghềnh sông suối.../ và là nước mắt ở trong tôi”( Chiếc khăn tay).
Thơ Cả tạo ra bất ngờ trong nếp nghĩ bạn đọc, gây hứng thú và quyến rũ.
Xuyên suốt tập thơ Giữa lòng sông chảy , tiết tấu thơ của
Ngô Phú Thiện dường như chậm chạp quá, những chữ thơ chảy chậm, mà bước chân
của đời sống, của thời đại thì đang gấp gáp, nhanh dần lên. Tôi suy nghĩ rằng, những nhận định, đúc kết kinh
nghiệm xác đáng như thế này về thơ : “
Tôi dùng các thể thơ rất khác nhau; đều nhịp, hay gần như thế, câu không vần
nhưng hợp vần khi gặp dịp, thơ tự do, những đoạn giống như văn xuôi có nhịp
điệu. Tôi thích sự tự nhiên hơn cả, không bao giờ định trước dùng thể gì. Tôi
để mặc bài thơ chọn lấy thể thơ” (J. Supervielle) chưa thẩm thấu vào hòn
thơ của Ngô Phú Thiện, nếu không muốn nói là còn xa lạ với anh. Thơ Ngô Phú
Thiện còn nặng cảm tính, ít có tính khai phá , cách tân về ngôn từ, thể loại,
cấu trúc, tứ thơ chắc nhưng còn hơi hướng cũ. Tôi có cảm nhận anh chưa dám “bức
bách” nhịp thơ, tư tưởng đến vực thẳm để thơ quẫy đạp, phiêu lưu vào một nơi
chốn mới mẻ. Bài thơ của anh tròn trịa quá, ngôn ngữ sáng tỏ quá, chưa kín đáo,
mơ hồ, huyễn hoặc, mà theo thiển ý tôi, đó là bản chất, bản tính, vẻ đẹp của
thơ vậy
Dẫu sao, những nhận định trên đây
cũng mang tính chủ quan, riêng biệt; còn tập thơ Giữa lòng sông chảy , với
tính nhân văn, và đa sắc đa thanh của : tự
sự ngày xuân,vầng trăng và giáo án,trước nguyên tiêu, ru hòn viên sỏi,, mùa
sen... hy vọng sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp cho độc giả. Thiết nghĩ làm đưuowcj
những câu thơ sau há cũng vô cùng hạnh phúc : “Ngày xuống chậm / phố bận lòng nhóm lửa/ tiếng xuân đi rạo rực bước
chân người/ không hối hả không phấn son bầy biện/tựa vào chiều một sắc hoa
tươi” (Trước nguyên tiêu). Để kết thúc bài viết, xin gửi vài lời cuối như
một tri âm.
Tương tác giữa tác giả và độc giả/Dẫu tôi viết bằng ngôn ngữ giản dị của
thi ca/Hoặc dạt dào cảm xúc của tản văn, lý trí và khô đặc của phê bình/Tất
thảy những sản phẩm ấy/Cũng là giọng nói của tôi cất lên từ đam mê, khát vọng,
khổ đau và nỗi sợ hãi/Chẳng biết bạn sẽ đọc những con chữ của tôi dưới ánh sánh
vĩ đại nào/Nếp nhăn vầng trán của bạn có co dãn theo trí tưởng tượng mông
lung/Hoặc bạn vứt các con chữ ở một xó xỉnh, trong sọt rác/Bạn nghĩ những điều
kia không phải sự thật, điều nọ là hư cấu, điều ấy là phàm phu tục tử/Quyền lựa
chọn viết, quyền lựa chọn đọc của chúng ta/Đôi khi mơ hồ, huyễn hoặc hoặc chân
lý cụ thể/Là cái đẹp, sự ưu ái của tạo hóa/Vì cái riêng và cái chung/Vì sự khác
biệt những con sóng trên đại dương/Sự kết hợp hoặc chia ly/Nỗi sợ hãi và lòng
dũng cảm nhìn cái chết/Gớm ghiếc, sự thật hoặc thân thiết như ông bà cha mẹ
chúng ta nằm ngủ/Những con chữ trườn mình qua vực thẳm, đôi mắt bạn ngôi sao
treo trên đỉnh núi/Chẳng có khế ước nào giữa cây xanh và ánh sáng/Bão chữ,
những mái nhà xiêu vẹo, cột cao thế gãy nhào, nỗi hoảng sợ về những điều mới
mẻ/Tình yêu giữa chúng ta với thi ca là có thật/Như giữa chúng ta và thi ca có
thật nỗi sợ hãi và cái chết.
Bài viết của Huỳnh Minh Tâm
GV trường THPT Huỳnh NGọc Huệ, Đại Lộc, Quảng Nam .
ĐT 0510 3865898
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét